Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. | |
Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau: |
Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011
Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011)
Trung Quốc chẳng liên quan đến các quần đảo của Việt Nam
Có tài liệu cho thấy người ngoại quốc đã đến Việt Nam trước khi Lê Quý Đôn theo quân Trịnh vào Thuận Hoá. Và họ ghi lại 170 năm trước “Phủ Biên Tạp Lục” sự căn thuộc Việt Nam của quần đảo ta gọi là Hoàng Sa. Khi ấy, Trung Quốc còn ở xa tắp và nhà Minh sắp mất vào tay Mãn tộc!
Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011
Gốm Việt ở Viện Bảo Tàng Anh, Luân Đôn
Bản sắc Việt vẫn đậm đà trên cổ vật
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc, dân tộc Việt không ngừng chống lại sách lược đồng hóa của bọn phong kiến phương Bắc. Năm 43, nhà Đông Hán cử Phục ba tướng quân Mã Viện sang Giao Chỉ đàn áp cuộc nổi dậy giành quyền tự chủ của Hai Bà Trưng.
Chiến thắng, Mã Viện quyết tâm tiêu diệt văn hóa bản địa. Ra lệnh tịch thu tất cả vật phẩm của người Việt đúc thành ngựa đồng đem về dâng vua Hán. Đem thợ gốm từ Trung Quốc qua xây lò sản xuất dụng cụ sinh hoạt, thờ cúng mang dấu ấn văn hóa Hán tộc tại Tam Thọ (Đông Sơn - Thanh Hóa, phát triển từ thế kỷ thứ I - thế kỷ thứ IV). Dần dần trên mặt nổi, một hình thái văn hóa, mỹ thuật “Hoa hóa” chi phối giai cấp quan lại thống trị và giới Nho sĩ bản xứ phát triển tại trung tâm Đại La.
Thứ Bảy, 9 tháng 7, 2011
Chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa: Tư liệu và sự thật lịch sử
Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011
Kinh Dịch là của người Việt
Mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông.
Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011
Trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974
Sau khi quân Pháp rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Genève 1954, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 của Hải quân VNCH là một bằng chứng lịch sử rõ ràng cho thấy Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH đang thực thi chủ quyền lâu đời của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và việc liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này là một hiển nhiên trong lịch sử. |
Thứ Hai, 4 tháng 7, 2011
Thư tịch Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam
Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau: "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).
Vì sao biển Đông bị thành biển Trung Hoa?
Từ đây, một vấn đề khác đặt ra là: biển Đông từ tên gọi Giao Chỉ dương (thế kỷ XV), vì sao lại bị người phương Tây ghi nhầm là biển Nam Trung Hoa (hay biển Trung Hoa) như hiện nay? Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu bài viết tiếp theo của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu để lý giải cho câu hỏi trên.
Từ thời thượng cổ đến thế kỷ XV, người ta tưởng rằng địa cầu chỉ có ba châu lục: châu Âu, châu Á và châu Phi. Có lẽ khởi đầu là nhà địa lý Ptoléméo (người Hy Lạp) đã vẽ ra bản đồ thế giới gồm ba châu lục kéo dài từ Nam cực đến Bắc cực và từ Đông phương sang Tây phương, chiếm phần lớn diện tích địa cầu, diện tích đại dương không còn bao nhiêu. Các nhà địa lý và bản đồ học Tây phương cứ theo mẫu đó mà hoàn thiện dần.