Thứ Hai, 4 tháng 7, 2011

Thư tịch Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Việt Nam

Theo chính sử  Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến  thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu chữ nào  ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần  đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ  quyền của Trung Quốc.

Trong  khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi  lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của  Việt Nam.
Một tài liệu đáng tin cậy về chính sử Trung Hoa là cuốn "Lịch sử Trung  Quốc thời trung cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm  1978, học giả Hsieh Chiao-Min trong bài "Nghiên cứu về lịch sử và địa  lý” nhận định về cuộc thám hiểm của Trung Hoa tại đại dương như sau:  "Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc  Trung Hoa không tha thiết với đại dương”. Theo các tài liệu lịch sử  chính thống "thảng hoặc triều đình Trung Hoa cũng gửi những đoàn thám  hiểm đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ III và thứ II (TCN) và tại Đông  Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ XV. Điểm rõ nét nhất là tại  Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập  quy mô của Trung Hoa” suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ  III TCN đến nhà Thanh từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX).
Dưới đời nhà Minh, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái Giám Trịnh Hòa chỉ  huy những đoàn thám hiểm đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết lập  bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ Lụa  tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của phái bộ  Trịnh Hòa không phải để chinh phục Biển Đông nơi có hai quần đảo Hoàng  Sa và Trường Sa. Trên thực tế đoàn thuyền chỉ đi ngang qua Biển Đông  nhằm khai phá Ấn Độ Dương. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong khu vực  này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành  Tổ mất, triều đình nhà Minh đã phê phán những cuộc hải trình nặng phần  trình diễn của Trịnh Hòa đã góp phần làm suy yếu nền kinh tế quốc gia.
Sử gia Triệu Nhữ Quát đời nhà Tống trong cuốn Chư Phiên Chí đã xác  nhận nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán. Theo đó, năm 111  TCN, sau khi thôn tính Nam Việt "Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm  đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo  Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo  Hải Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ  thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Triệu Nhữ Quát cũng cho biết vùng  quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung  Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai một tí là có thể chìm đắm. Nhan đề  sách là Chư Phiên Chí, có nghĩa là chép chuyện các phiên quốc, nước  ngoài. Vạn Lý Trường Sa nằm ở phiên quốc, có nghĩa là không thuộc về  Trung Hoa mà thuộc về phiên quốc Nam Việt. Như vậy, biên giới trên Biển  Đông của Trung Hoa vào đời nhà Hán chỉ tới đảo Hải Nam.

Posted Image

Một trang trong cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc đời Khang Hy, thuật lại chuyến du hành tới xứ Đàng Trong, thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Đại Việt.


Đời nhà Đường có sách Đường Thư Nghệ Văn Chí đề cập tới cuốn Giao Châu  Dị Vật Chí của Dương Phu chép những chuyện kỳ dị và những nơi kỳ dị tại  Giao Châu (Việt Nam). Sách này chép, tại Thất Châu Dương (nhóm An Vĩnh,  quần đảo Hoàng Sa) là nơi có nhiều đá nam châm khiến các thuyền ngoại  dương có đóng chốt sắt đi qua không được. Điều này đã khẳng định quần  đảo Hoàng Sa thuộc về Giao Châu xưa (nay là Việt Nam). Trong đời Nam  Tống, cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi cũng xác nhận: "Vạn Lý  Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Chư Phiên Đồ đời Tống  cũng xác định giới hạn lãnh thổ của Trung Quốc với các nước khác ở Giao  Dương (tức Giao Chỉ Dương). Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc  Bộ ngày nay, trong khi Hoàng Sa và Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ  hàng trăm dặm về phía nam. Như vậy, các thư tịch cổ Trung Hoa từ đời nhà  Tống đã cho thấy Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc mà  thuộc về nước khác mà Trung Quốc gọi là phiên quốc hay Giao Châu, Giao  Chỉ. Vào đời nhà Nguyên, quân và dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan quân  Nguyên – Mông xâm lược và góp phần phá tan kế hoạch Đông Tiến (đánh Nhật  Bản) của đoàn quân Mông Cổ nổi danh là bách chiến bách thắng từ đời  Thành Cát Tư Hãn. Sau 3 phen thất bại, nhà Nguyên không còn dòm ngó Đại  Việt cả trên lục địa đến các hải đảo. Trong suốt các thế kỷ XIII và XIV,  theo chính sử Trung Hoa, quân Mông Cổ không hề có ý định xâm chiếm hai  quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong Dư Địa Đồ đời Nguyên của Chu Tư  Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên thực  hiện năm 1561 phần cực nam lãnh thổ Trung Hoa là đảo Hải Nam.
Đời nhà Minh, Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống  Chí (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức  Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong  khi cuốn Vũ Bị Chí của Mao Nguyên Nghi gọi Biển Đông là Giao Chỉ Dương.  Trên các bản đồ Trịnh Hoà Hạ Tây Dương, Trịnh Hòa Hàng Hải Đồ cũng không  thấy ghi chép các danh xưng Hoàng Sa, Trường Sa (hay theo cách gọi của  Trung Hoa là Tây Sa, Nam Sa, Tuyên Đức, Vĩnh Lạc) trong các lộ trình và  hải đạo của Trịnh Hòa sau 7 lần đi qua Biển Đông để khai phá Ấn Độ Dương  (Tây Dương). Nhiều tài liệu chính sử nhà Minh cho biết, từ thế kỷ XV,  các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nguyên là địa bàn ngư nghiệp của  Chiêm Thành đã trở thành lãnh thổ của Đại Việt. Lưu ý rằng từ năm 1427  Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh để giành lại chủ quyền cho Đại Việt bị  Minh Thành Tổ chiếm đoạt từ 20 năm trước (1407).

Posted Image

Đại Thanh Nhất Thống Toàn Đồ, đảo nhỏ ở phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ, đảo lớn hơn bên phải là Đài Loan.
Đời nhà Thanh, từ thế kỷ thứ XVII đến XX, theo bản đồ Hoàng Thanh Nhất  Thống Dư Địa Bản Đồ do triều đình nhà Thanh ấn hành năm 1894 thì đến  cuối thế kỷ XIX "lãnh thổ của Trung Quốc chỉ chạy đến đảo Hải Nam là  hết”. Qua thế kỷ XX, sự kiện này còn được xác nhận trong cuốn Trung Quốc  Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 với đoạn như sau: "Điểm cực  nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam)  tại vĩ tuyến 18”. Các quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ thuộc đảo Hải Nam kéo  dài từ vĩ tuyến 20 (ngang Thanh Hoá) đến vĩ tuyến 18 (ngang Nghệ An – Hà  Tĩnh). Trong khi quần đảo Hoàng Sa tọa lạc về phía nam, từ vĩ tuyến 17  đến vĩ tuyến 15 (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và quần  đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 8 (Cam Ranh – Cà  Mau). Bản đồ Đại Thanh Đế Quốc do triều đình nhà Thanh ấn hành cũng  không thấy vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (cũng không thấy ghi  theo cách gọi của Trung Quốc là Tây Sa, Nam Sa, Vịnh Lạc, Tuyên Đức...).  Hơn nữa, trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam  (1820-1842) chép: "Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển  được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”. Như vậy,  tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ  trên biển của Việt Nam. Trong bộ sách địa lý Đại Thanh Nhất Thống Chí do  Quốc Sử Quán nhà Thanh biên soạn năm 1842 với lời tựa của hoàng đế  Thanh Tuyên Tông, không có chỗ nào ghi Thiên Lý Trường Sa hay Vạn Lý  Trường Sa (quần đảo Hoàng Sa). Trong cuốn Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần  Luân Quýnh (1744), vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông được ghi bằng  các danh xưng Việt Hải và Việt Dương. Trong vụ ngư dân đảo Hải Nam cướp  tàu chở đồng bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa những năm 1895-1896, để trả  lời văn thư phản kháng của Chính phủ Anh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Trung Hoa  đã phủ nhận trách nhiệm với lý do: "Hoàng Sa không liên hệ gì tới Trung  Quốc”. Ngoài ra cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (1695) của Thích Đại Sán một nhà  sư thời Khang Hy đã đến đất Thuận Hóa của chúa Nguyễn ngày 29 tháng  giêng năm Ất Hợi (13-3-1695) thuật lại chuyến hải hành này và ghi nhận  chủ quyền của Đại Việt trong việc chiếm hữu, kiểm soát và khai thác vùng  Biển Đông nơi tọa lạc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít nhất là từ  thế kỷ thứ XVII. Các tài liệu cổ của Trung Hoa rõ ràng cho thấy hai quần đảo Hoàng Sa  và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) đã được người Việt  Nam phát hiện, sử dụng trong nhiều thế kỷ một cách hoà bình và liên tục  không có sự phản đối của bất cứ quốc gia nào kể cả của Trung Quốc. Điều  đó được minh chứng từ tư liệu chính sử của nhiều triều đại Trung Quốc  trong đó đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của người Việt Nam trên hai  quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt hơn 22 thế kỷ từ thời Tần, Hán  cho đến đầu thế kỷ XX.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét