Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

Bản sắc Việt vẫn đậm đà trên cổ vật

Suốt ngàn năm bị nội  thuộc Trung Quốc, dân tộc Việt không ngừng chống lại sách lược đồng hóa  của bọn phong kiến phương Bắc. Năm 43, nhà Đông Hán cử Phục ba tướng  quân Mã Viện sang Giao Chỉ đàn áp cuộc nổi dậy giành quyền tự chủ của  Hai Bà Trưng.


Chiến thắng, Mã Viện  quyết tâm tiêu diệt văn hóa bản địa. Ra lệnh tịch thu tất cả vật phẩm  của người Việt đúc thành ngựa đồng đem về dâng vua Hán. Đem thợ gốm từ  Trung Quốc qua xây lò sản xuất dụng cụ sinh hoạt, thờ cúng mang dấu ấn  văn hóa Hán tộc tại Tam Thọ (Đông Sơn - Thanh Hóa, phát triển từ thế kỷ  thứ I - thế kỷ thứ IV). Dần dần trên mặt nổi, một hình thái văn hóa, mỹ  thuật “Hoa hóa” chi phối giai cấp quan lại thống trị và giới Nho sĩ bản  xứ phát triển tại trung tâm Đại La.


Posted Image
Rồng Lân Khánh Xuân Thị Tả
Posted Image
Bình hoa do nghệ nhân Bùi Thị Hí chế tác
Tuy nhiên, rất may  cho dân tộc Việt trong thời kỳ đen tối này đạo Phật được các tăng sĩ  Ấn  Độ truyền bá đến vùng đất Đông Nam Á, trong đó có Giao Châu. Với tinh  thần từ bi dung hợp được với truyền thống tín ngưỡng bản xứ, Phật giáo  được người Việt chấp nhận dễ dàng. Điều này hình thành dòng chảy văn hóa  ngấm ngầm trong làng mạc Việt, có bản sắc riêng gây được lòng tin tưởng  để chống lại sách lược “Hoa hóa” lâu dài. Dựa vào sức mạnh này mà các  lãnh tụ người Việt tiếp nối nhau phất cờ khởi nghĩa để giành lại nền độc  lập cho đất nước, quyền tự chủ cho dân tộc.


Đến năm 906, Khúc  Thừa Dụ chống lại nhà Đường tự xưng Tiết độ sứ cầm quyền tự trị Giao  Châu. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, triều thần tôn làm Đại  Thắng Minh hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.


Vua Đinh và con  trưởng bị ám sát, ngai vàng chuyển về tay thập đạo tướng quân Lê Hoàn  một cách êm ái nhờ Hoàng hậu Dương Vân Nga.


Nhà Tiền Lê truyền  được hai đời kéo dài 29 năm do sự bạo ác của Lê Long Đỉnh nên quân dân  làm “cách mệnh” tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế,  mở ra thời đại phục hưng văn hóa Đại Việt.


I. Triều Lý (1010-1225)


Posted Image


Linh thú chùa Phật Tích
Lý Công Uẩn sáng lập, truyền nối được chín đời vua. Đây là triều đại quân chủ Phật giáo rạng rỡ nhất trong lịch sử.


Sau khi đăng quang ở  Kinh Đô Hoa Lư, vua quyết định dời đô về thành Đại La, đổi tên thành  Thăng Long. Nhà Lý phối hợp nhuần nhuyễn hai hệ tư tưởng lớn Phật giáo -  Nho giáo với truyền thống dân tộc để xây dựng nền tảng văn hóa vững  chắc, đủ sức đề kháng với văn hóa phương Bắc áp đặt trên dân tộc suốt  một ngàn năm.


Những di sản vật thể  còn tồn tại đến nay cho thấy dưới thời Lý, văn hóa Việt giao lưu, tiếp  thu nhiều yếu tố Phật giáo Đông Nam Á, được truyền từ Ấn Độ sang. Xã hội  chưa bị ràng buộc theo những kỷ cương cứng nhắc của Nho giáo nên tư  tưởng phóng khoáng, bao dung dễ hòa hợp. Nhờ đó mỹ thuật phát triển,  tiến bộ rất nhanh tạo được những tác phẩm điêu khắc bằng đá tiêu biểu  như tượng Phật Thích Ca, tượng Kim Cương Hộ Pháp, tượng các linh thú ở  chùa Phật Tích, giếng nước chùa Báo Thiên…


Tác phẩm to lớn bằng  đồng như tượng Phật Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ  Minh (An Nam tứ đại khí)... Các loại hình trang trí trên nóc chùa tháp,  cung điện bằng đất nung rất đa dạng như rồng, kim xí điểu, nhạc thần, lá  bồ đề, hoa sen… tuyệt đẹp. Đặc biệt là các loại đồ gốm men ngọc, men  xanh lục, men ngà… kiểu thức thanh nhã, khắc họa hoa văn tinh tế, được  xem là dấu ấn mỹ thuật của thời Lý, đậm đà bản sắc Đại Việt.


II. Triều Trần (1225-1413)


Posted Image
Các kiểu lá đề trang trí triều Trần
Nhà Trần thay thế nhà  Lý diễn ra trong nội bộ hoàng gia, không gây ra những xáo trộn xã hội.  Đạo Phật vẫn là quốc giáo, được triều đình, nhân dân sùng mộ, quy ngưỡng  nhờ các vị vua đầu triều như Thái Tông, Thánh Tông, và nhất là Phật  Hoàng Trần Nhân Tông.


Posted Image
Đầu Kim Sí Điểu và hình rồng thời Trần
Tuy nhiên, do phải  đương đầu với hai cuộc chiến tranh giữ nước, tài lực không phong phú như  thời Lý, nên ít xây dựng những chùa tháp quy mô. Vật liệu kiến trúc  trang trí chuyển sang dùng gỗ thay thế cho đồng, đá nên dễ bị hư hỏng.  Thời Trần cổ xúy tinh thần “cư trần lạc đạo”, gần gũi với quần chúng nên  hình thành phong cách mỹ thuật hiện thực, mạnh mẽ theo tinh thần thượng  võ. Trên đồ gốm nhờ sử dụng men màu nâu nên các đề tài trang trí phong  phú gây ấn tượng mạnh mẽ.


Biểu tượng “rồng bay”  ổn định suốt hơn 200 năm dưới thời Lý, bước sang triều Trần có phần  thay đổi. Mặt rồng dữ, toát ra vẻ quyền uy đế vương. Trên đầu có sừng,  thân mập ngắn, không uốn lượn uyển chuyển kéo dài như rồng Lý.


III. Triều Lê (1428-1527)


Posted Image


Tượng phụ nữ quý tộc triều Lê
Đầu thời Lê, vẫn còn  giữ truyền thống Lý - Trần. Dần dần để củng cố quân quyền theo kỷ cương  Nho giáo, triều đình cải cách mô phỏng theo những định chế của triều  Minh. Như việc vua Lê Thái Tông đã theo lời tâu của thái giám Lương Đăng  cải cách Lễ nhạc, nghi vệ mà không theo ý kiến của Nguyễn Trãi. Do đó,  tư tưởng Phật giáo không còn giữ được vai trò quan trọng tại triều đình,  lùi về sinh hoạt tín ngưỡng trong dân gian. Luật lệ không cho phép xây  dựng chùa chiền mới, hạn chế tăng sĩ. Mỹ thuật Phật giáo thời kỳ này  không có dấu ấn đặc biệt.


Riêng công nghệ chế  tạo đồ gốm, nhờ ứng dụng màu men lam để trang trí nên phát triển rực rỡ.  Đồ gốm Việt Nam được các nước trong khu vực quý chuộng, xuất khẩu sang  thị trường Nhật Bản, Mã Lai, Nam Dương…


Ngày nay nhìn ngắm  các họa tiết men lam, tam thái (ba màu: lục, đỏ, lam) trên đồ gốm Chu  Đậu (Hải Dương) qua những hình ảnh phong cảnh, thú vật, chim hoa, côn  trùng sinh động, vui tươi gần gũi với cuộc sống nông thôn Việt Nam, khác  hẳn đồ sứ Trung Quốc cùng thời. Điều đó chứng minh rằng, hội họa Việt  Nam từ thế kỷ thứ XV đã phát triển, được lưu lại trên đồ gốm Chu Đậu,  mang đậm bản sắc truyền thống.


IV. Triều Mạc (1527-1592)


Posted Image
Lư hương thời Mạc
Posted Image
Chân đèn thời Mạc
Sau thời đại thịnh  trị Hồng Đức (Lê Thánh Tông), triều Lê nhanh chóng suy thoái vì các vua  hoang dâm, vô đạo như Uy Mục, Tương Dực. Năm 1526, Mạc Đăng Dung bức tử  vua Lê Chiêu Tông để bước lên ngai vàng mở ra triều Mạc. Giới Nho sĩ  chống đối quyết liệt, hai họ Nguyễn - Trịnh phất cờ “phù Lê diệt Mạc”.


Để đối phó tình thế,  nhà Mạc bãi bỏ những quy định hạn chế đối với Phật giáo dưới thời Lê.  Ủng hộ việc xây dựng, sửa chữa chùa đền để lấy lòng quần chúng. Khuyến  khích thợ thuyền, mở rộng thương nghiệp… nhờ đó mà ngành mỹ nghệ gốm sứ  đạt được kết quả tốt đẹp. Nhiều nghệ nhân nổi tiếng xuất hiện, sáng tác  nhiều men màu, kiểu mẫu, để lại dấu ấn mỹ thuật của triều Mạc đặc sắc  trong kho tàng di sản.


V. Triều Lê - Trịnh (1533-1789)


Posted Image


Chậu rửa mặt Nội Phủ Thị Nam - thời Lê Trịnh
Sau khi diệt được họ  Mạc, giành lại ngai vàng đưa vua Lê trở về Thăng Long, họ Trịnh nắm hết  quyền hành cai trị ở Bắc hà. Tiếp theo không giải quyết được bằng chiến  tranh, hai họ Trịnh - Nguyễn chấp nhận phân chia lãnh thổ để làm chúa  hai miền đất nước.


Cuộc nội chiến Trịnh -  Mạc khiến trung tâm gốm Chu Đậu (Hải Dương) bị tàn phá nặng nề, rồi suy  thoái dần mất hẳn thị trường. Kể từ thế kỷ XVIII, ngành công nghệ gốm  trong nước chỉ sản xuất đồ vật gia dụng cho giới bình dân. Vua chúa,  quyền quý đua nhau gửi kiểu mẫu đặt làm đồ sứ ở Trung Quốc để phục vụ  nhu cầu sinh hoạt.


Từ giai đoạn này bắt  đầu phát sinh “ĐỒ SỨ VIỆT NAM KÝ KIỂU”, dấu ấn của sự giao lưu, hợp tác  chế tạo giữa Việt Nam và Trung Quốc. Điểm đặc biệt là trên đồ sứ ký kiểu  vẫn đậm đà bản sắc Việt, nghệ nhân Trung Quốc chỉ sử dụng nguyên liệu  cao cấp chế tạo sản phẩm theo đúng kiểu mẫu hoa văn trang trí, thơ văn  đề vịnh Hán Nôm do chính chủ đặt hàng quyết định.


Di sản văn hóa là  “của tin” của tổ tiên từ ngàn xưa truyền lại cho con cháu vạn đời sau.  Nếu có tấm lòng thì nhìn nó không chỉ là đồ đồng, đá, gỗ, gốm... mà  trong đó ẩn dấu hình bóng, tâm tình, của người xưa. Người đời sau có thể  hiểu được nếp sống, tư tưởng của ông cha ngàn kiếp trước. Nếu thành tâm  còn có thể cảm thông, trao đổi tâm tình với nhau thông qua di sản.


Có nhân duyên cầm  trên tay một cổ vật ta có thể “hiệp thông” với quá khứ. Nước nào, nhà  nào bất hạnh, di sản văn hóa của tổ tiên bị phá hoại, khinh thường thì  nước, nhà đó đang đi vào tình trạng “vong bản”. Sống với cái xác không  hồn, đúng là:


“Hại thay cái họa chết lòng
Lòng kia đã chết còn mong nỗi gì”.


(Phan Bội Châu)


Theo TTO

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét